SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRƯỜNG THPT THỦ ĐỨC | CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 24 tháng 3 năm 2025 |
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
Những năm tháng hình thành:
Năm 1956, Linh mục Nguyễn Đức Chấn từ Pháp trở về nước được Tổng Giám mục địa phận Sài Gòn phân công phụ trách công tác thanh niên, phát triển văn hóa trong khu vực giáo xứ Bắc Ninh trên địa bàn Thủ Đức, tỉnh Gia Định. Sau thời gian chuẩn bị nền móng cơ bản, năm 1959 Linh mục Nguyễn Đức Chấn đã sáng lập, hình thành trường Trung học Đệ Nhất cấp Đức Minh. Lúc đó, Trường chỉ có một dãy nhà nhỏ, tầng trệt và lầu 1 với khoảng 6 lớp, học sinh mỗi lớp không nhiều. Đến năm 1970, Trường được trợ cấp một số kinh phí để xây dựng tầng trệt dãy nhà chính gồm 7 phòng học; đến năm 1972 được tài trợ thêm kinh phí xây tiếp lầu 1, lầu 2, lầu 3 trên tầng trệt dãy nhà chính; năm 1973 hoàn thành. Trường chính thức mang tên Trung học Tư thục Đức Minh gồm các lớp Đệ Nhất và Đệ Nhị cấp (từ lớp 6 đến lớp 12) do Linh mục Nguyễn Đức Chấn làm Hiệu trưởng cho đến ngày đất nước thống nhất 30/4/1975.
Ngày 27/11/1975, Trường được Quốc lập hóa, khi đó các lớp cấp 2 (từ lớp 6 đến lớp 9) chuyển sáp nhập với trường cấp II trên địa bàn; các lớp 10, 11, 12 được giữ lại. Năm 1976, Trường Phổ thông Trung học Thủ Đức chính thức hình thành theo Quyết định số 14/QĐ ngày 13/2/1982 của Bộ Giáo dục Đào tạo về danh sách 33 Trường THPT của Thành phố Hồ Chí Minh được công nhận.
TRƯỜNG PHỔ THÔNG TRUNG HỌC THỦ ĐỨC
Giai đoạn năm 1976 – 1981:
Năm 1976 – 1977 là năm học đầu tiên do Thầy La Thế Dũng làm Hiệu trưởng. Trường chỉ có khoảng 10 lớp, số học sinh chưa tới 500 em, học theo chương trình phân ban gồm các ban A, B, C, D. Học sinh chỉ học buổi sáng, buổi chiều nghỉ; mỗi tháng có một ngày lao động xã hội chủ nghĩa để gia tăng sản xuất như trồng khoai lang, khoai mì tại khu trường bắn Thủ Đức; đắp đê, ngăn mặn, làm gạch, chăn nuôi heo, gà, vịt, thỏ,…
Đây là thời kỳ đất nước gặp muôn vàn khó khăn. Chủ trương nền kinh tế tự cung, tự cấp, chính sách hạn chế lưu thông hàng hóa nên đời sống của thầy cô gặp nhiều khó khăn. Ngoài việc dạy và học, hàng tuần, thầy và trò phải tham gia lao động sản xuất. Chiến tranh biên giới ở phía Bắc với Trung Quốc, chiến tranh biên giới Tây Nam với Campuchia, nhiều thế hệ thầy, trò đã tình nguyện lên đường bảo vệ Tổ quốc. Tháng 01/1979, toàn trường có 28/34 học sinh là đoàn viên TNCS Hồ Chí Minh đăng ký nhập ngũ; trong đó tiêu biểu có học sinh Võ Thanh Hải, Nguyễn Trường Thọ, … hiện nay là Bác sĩ Võ Thanh Hải, Bác sĩ Nguyễn Trường Thọ, làm tại Bệnh viện Đa khoa khu vực Thủ Đức; Thầy Trần Văn Đức, nay là Hiệu trưởng Trường THPT Nguyễn Hữu Huân; Cô Trần Thị Sáu, Thầy Nguyễn Văn Chương, nay là Phó Tổng biên tập Báo pháp luật TP.Hồ Chí Minh, là những lứa học sinh lớp 12 tốt nghiệp đầu tiên của nhà trường. Tháng 5/1979, Đại hội thành lập Đoàn trường, Thầy Nguyễn Hữu Diệu được đề cử làm Bí thư Đoàn trường đầu tiên. Tuy đời sống vật chất của thầy và trò giai đoạn này vô cùng khó khăn, thiếu thốn nhưng với lòng yêu nghề, tinh thần trách nhiệm và tình cảm gắn bó, thầy và trò đã vượt qua mọi thủ thách, đạt kết quả cao trong các kỳ thi tốt nghiệp và tuyển sinh Đai học – Cao đẳng.
Giai đoạn năm 1981 – 1986:
Tháng 3/1981 Thầy La Thế Dũng chuyển về trường Bổ túc Công Nông 2, Thầy Nguyễn Trọng Điệp làm quyền Hiệu trưởng; Tháng 10/1981 Thầy Trần Hữu Nghị được bổ nhiệm làm Hiệu trưởng, với sự hỗ trợ điều hành, quản lý của hai phó hiệu trưởng là Thầy Nguyễn Trọng Điệp và Cô Nguyễn Thị Thanh Huyền. Thầy điềm đạm, quan tâm xây dựng khối đoàn kết trong nội bộ, thúc đẩy việc học tập của học sinh. Chương trình phân ban từ trước năm 1975 bị hủy bỏ, được thay thế bằng chương trình phổ thông trung học mới. Số học sinh nhà trường bắt đầu tăng dần. Học sinh nỗ lực trong học tập và rèn luyện trật tự kỉ luật, có những lớp được Thành đoàn Thành phố Hồ Chí Minh công nhận danh hiệu “Tập thể học sinh xã hội chủ nghĩa”. Nhà trường tổ chức sản xuất mực viết nhãn hiệu Thành Công; sản xuất chiếu cói, giỏ lát,… nhưng kết quả không mấy khả quan.
Cùng thời điểm này, nhà trường còn là điểm đặt của trường Dân Chính cấp III Thủ Đức, trường hoạt động vào ban đêm để tạo mọi điều kiện cho Cán bộ - Công nân viên các ban ngành học tập, bổ sung kiến thức phổ thông, lúc đó số lượng học viên ban đêm đông hơn ban ngày.
Giai đoạn năm 1986 – 1990:
Năm 1986 Thầy Phạm Bá Đằng được bổ nhiệm làm Hiệu trưởng, Thầy Nguyễn Trọng Điệp, Cô Nguyễn Thị Thanh Huyền và Cô Võ Thị Bích Hà làm Phó Hiệu trưởng. Đất nước bắt đầu mở cửa, chính sách kinh tế có những đổi thay, các chủ trương, chính sách, việc lưu thông hàng hóa tương đối thuận lợi hơn.
Theo chủ trương của ngành, nhà trường bắt đầu tuyển sinh thêm một số lớp bán công để đáp ứng nhu cầu học tập của con em trong vùng. Vào thời gian này, Trường được Ủy ban Nhân dân huyện Bến Cát, tỉnh Bình Dương cấp 10 hecta đất để làm trang trại và trồng điều. Vì thế, hoạt động của nhà trường tương đối bề bộn: tổ chức dạy học 3 hệ (công lập, bán công và hệ Dân chính - bổ túc văn hóa); đồng thời tổ chức lao động sản xuất, kinh doanh. Do làm chiếu cói, lát giỏ, trồng điều và nuôi bò tại Bến Cát; nuôi gà, vịt, heo, thỏ, trồng sâm đại hành, … tại trường nên trật tự, kỷ luật trong trường có phần bị xem nhẹ; tinh thần, thái độ học tập của học sinh chưa thật nghiêm túc; sinh hoạt của GV – NV có phần lỏng lẻo; tình hình sản xuất kinh doanh, … luôn thua lỗ; sự đồng thuận trong nội bộ không cao và kết quả học tập của học sinh có chiều hướng giảm sút. Do vậy, trường giải tán việc sản xuất và 10 hecta đất ở Bến Cát được thỏa thuận giao cho Nông trường dừa Thủ Đức.
Giai đoạn năm 1990 – 2005
Năm 1990, Thầy Phạm Bá Đằng chuyển công tác, Thầy Nguyễn Khoa Phú được bổ nhiệm làm Hiệu trưởng, Cô Từ Thị Lan, Thầy Đặng Ngọc Hiền làm Phó Hiệu trưởng. Năm 1991 Thầy Đặng Ngọc Hiền xin nghỉ Phó Hiệu trưởng, Thầy Nguyễn Hữu Diệu làm Phó Hiệu trưởng thay thế.
Đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, CB – GV – NV an tâm công tác, gắn bó với trường nhiều hơn. Đây là giai đoạn trường THPT Thủ Đức có sự chuyển mình sâu sắc, ngày một phát triển mạnh hơn, tạo được niềm tin trong PHHS và xã hội. Năm 1994, Cô Từ Thị Lan xin nghỉ Phó Hiệu trưởng, Ban Giám Hiệu chỉ còn 01 Hiệu trưởng và 01 Phó Hiệu trưởng. Học sinh vào ngày càng đông, dưới áp lực của học sinh hệ bán công, nhà trường đề ra chủ trương: học sinh không có hộ khẩu khi nhập học bán công đóng góp thêm tiền cơ sở vật chất là 300,000 đ/năm để góp tiền xây thêm phòng học.
Năm 1997 – 1998 được sự chấp thuận của Ủy ban Nhân dân quận Thủ Đức, Trường xin giải tỏa khu mộ đá phía sau trường để xây dãy lầu gồm 12 phòng học và sân chơi, với nguồn kinh phí từ tiền cơ sở vật chất phụ huynh đóng góp và tiền vay từ thầy cô. Năm 1999, nhà trường đã hoàn thành nghĩa vụ tài chính với tất cả thầy cô. Thời điểm này, trường có 3,200 học sinh với 62 lớp.
Năm 1999, Thầy Nguyễn Văn Chiến, Thầy Nguyễn Trọng Cường được bổ nhiệm làm Phó Hiệu trưởng, sau đó Thầy Nguyễn Văn Chiến về làm Phó Hiệu trưởng trường THPT Tam Phú. Tháng 7/2001 Thầy Trần Văn Đức được điều động bổ nhiệm Phó Hiệu trưởng trường THTP Nguyễn Hữu Huân.
Năm 2000 – 2002, Trường được Ủy ban Nhân dân quận Thủ Đức xây dựng thêm khối phòng học gồm 1 trệt và 3 lầu với 20 phòng học. Đến năm 2003 bắt đầu thực hiện giảm tải học sinh hệ bán công trong trường công lập, chuẩn bị thực hiện việc tổ chức dạy 2 buổi/ngày. Năm 2004, Cô Nguyễn Thị Minh Hảo được bổ nhiệm làm Phó Hiệu trường. Thầy Nguyễn Trọng Cường điều chuyển làm Trưởng phòng Giáo dục Quận 9.
Trong giai đoạn từ năm 1990 – 2005, trường hoạt động khá ổn định, cán bộ quản lý thay đổi nhiều và một số thầy cô được điều động đi nơi khác; Chi bộ hoạt động mạnh hơn trước, chất lượng học tập ổn định; nề nếp, trật tự kỷ luật thực hiện nghiêm túc, được PHHS và xã hội ủng hộ.
Giai đoạn năm 2005 đến 2015
Năm 2005, Thầy Nguyễn Khoa Phú nghỉ hưu, Thầy Nguyễn Hữu Diệu được bổ nhiệm làm Hiệu trưởng. Trường chỉ có 01 phó hiệu trưởng - Cô Nguyễn Thị Minh Hảo. Nhà trường tiếp tục củng cố, sắp xếp, bố trí lại cơ sở vật chất và xây dựng chiến lược phát triển nhà trường giai đoạn 2006 – 2011 theo định hướng “Xây dựng trường chuẩn quốc gia” theo quy chuẩn giai đoạn 2001 – 2010; tiếp tục thực hiện cuốn chiếu để xóa hệ bán công trong trường công lập, giảm số lượng lớp học xuống còn 45 lớp.
Năm 2006, trường tổ chức kỷ nhiệm 30 năm thành lập để phát huy sức mạnh tổng hợp từ cựu học sinh, cựu giáo viên, cựu PHHS cùng tập thể CB – GV –CNV đồng tâm hiệp lực cùng nhau thực hiện chiến lược phát triển nhà trường giai đoạn 2006 – 2011. Năm học 2007 – 2008, trường tự kiểm định đạt hầu hết các tiêu chuẩn của trường chuẩn quốc gia trừ tiêu chí về số lớp (không quá 45 lớp, lúc đó trường có 48 lớp).
Năm học 2008 – 2009, Sở Giáo dục – Đào tạo điều chuyển thầy Nguyễn Văn Hiệp làm Phó Hiệu trưởng nhà trường. Sở Giáo dục – Đào tạo thay đổi hình thức tuyển sinh lớp 10. Sĩ số học sinh vào trường nhiều hơn, áp lực về tăng sĩ số lớp và số lớp 10. Trường lập dự án “Cải tạo, nâng cấp sân bãi; xây mới một số phòng học chức năng và khu phòng làm việc” và đã được Ủy ban Nhân dân Thành phố chấp thuận. Ngày 19/5/2012, hai dãy A, B nhà trường được đưa vào sử dụng. Từ đó, cơ sở vật chất của nhà trường đã đáp ứng được yêu cầu dạy và học. Với những kết quả cao trong công tác giáo dục đào tạo từ những năm 2012 đến 2015, tháng 3 năm 2015, nhà trường được Sở GDĐT Thành phố Hồ Chí Minh công nhận cơ sở đạt tiêu chuẩn chuất lượng giáo dục.
Tháng 4 năm 2011, thầy Đào Phi Trường được bổ nhiệm làm Phó Hiệu Trưởng, cô Võ Thị Bình Minh được đề bạt làm Phó Hiệu trưởng Trường THPT Hiệp Bình. Năm 2012 Thầy Nguyễn Văn Hiệp chuyển làm Hiệu trưởng Trường THPT Hiệp Bình. Năm 2013, cô Hoàng Thị Hảo được bổ nhiệm làm Phó Hiệu trưởng.
Giai đoạn từ năm 2015 đến nay
Về cơ sở vật chất, trường có diện tích 11.086m2, kết cấu thành 5 khu A, B, C, D, E. Tổng số phòng học: 53 (có 17 phòng được trang bị máy chiếu, tất cả các phòng học đều trang bị hệ thống loa, micro); 05 phòng thí nghiệm Lý, Hóa, Sinh (có đầy đủ trang thiết bị thực hành, có máy chiếu); 1 phòng học Stem; 10 phòng bộ môn trang bị đủ máy chiếu hoặc bảng tương tác (Văn-GDCD (1), Sử-Địa (1), Toán (1), Anh (2), Tin (4), Công nghệ (1)); 01 phòng truyền thống; 01 thư viện; 01 Hội trường sức chứa 500 người; 03 phòng chuẩn bị thí nghiệm; 01 phòng y tế; 01 phòng tiếp dân (công đoàn); 01 phòng tư vấn tâm lý; phòng Giáo viên; 01 văn phòng Đoàn; 01 nhà thi đấu; 02 kho thiết bị; 1 phòng nghỉ GV nam, 01 phòng nghỉ GV nữ. Khu hành chính: 01 văn phòng; 03 phòng PHT; 01 phòng HT. Ngoài ra, trường có 20 phòng nghỉ bán trú ( trang bị giường nằm, máy lạnh) có thể bố trí cho khoảng 1300 học sinh ở lại.
Về cán bộ quản lý nhà trường: Năm 2015 cô Nguyễn Thị Thanh Trúc được bổ nhiệm làm Phó Hiệu trưởng. Tháng 10 năm 2016, cô Nguyễn Thị Minh Hảo nghỉ hưu. Tháng 3 năm 2017, thầy Đỗ Vũ Ngọc Trung được bổ nhiệm làm Phó Hiệu trưởng. Tháng 6 năm 2017, thầy Nguyễn Hữu Diệu – Hiệu trưởng nhà trường được nghỉ hưu. Tháng 7 năm 2017, thầy Lê Ngọc Khái được bổ nhiệm Hiệu trưởng nhà trường. Tháng 4 năm 2019, cô Hoàng Thị Hảo – Phó Hiệu trưởng được bổ nhiệm làm Hiệu trưởng Trường THPT Đào Sơn Tây. Tháng 7 năm 2019, thầy Võ Thanh Toàn được bổ nhiệm làm Phó Hiệu trưởng. Tháng 9 năm 2019, cô Nguyễn Thị Thanh Trúc – Phó hiệu trưởng được bổ nhiệm Hiệu trưởng Trường THPT Dương Văn Thì.
Kết quả giáo dục từ năm học 2015 – 2016 đến năm học 2019-2020 thực sự tạo được ấn tượng, trở thành niềm vui, niềm tự hào của đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên, cha mẹ học sinh và học sinh nhà trường đồng thời tạo được sự lan tỏa về uy tín, chất lượng giáo dục của nhà trường đối với Nhân dân quận nhà và các vùng lân cận. Với những đóng góp bền bỉ, thầm lặng của đội ngũ cán bộ quản lý, nhà giáo, nhân viên; sự nỗ lực và sáng tạo không ngừng của nhiều thế hệ học trò những năm qua, Trường THPT Thủ Đức đã đạt được nhiều thành quả rất đáng trân trọng, đóng góp xứng đáng cho sự nghiệp giáo dục của Thành phố mang tên Bác, được Chủ tịch Nước trao tặng Huân chương Lao động hạng Ba năm 2019. Kết quả cụ thể như sau:
Nội dung | Năm học 2015-2016 | Năm học 2016-2017 | Năm học 2017-2018 | Năm học 2018-2019 | Năm học 2019-2020 |
HỌC SINH |
Tổng số học sinh | 2025 | 2181 | 2201 | 2198 | 2229 |
Số lớp | 52 | 56 | 52 | 52 | 53 |
Kết quả lên lớp (%) | 99.85% | 100% | 100% | 100% | 100% |
Kết quả tốt nghiệp THPT | 94.43% | 99.86% | 99,86% | 100% | 100% |
Điểm TB xét TN THPT | 6.0 | 6.51 | 6.2 | 7.24 | 7,3 |
Hiệu suất đào tạo | 98% | 99% | 100% | 100% | 100% |
Học sinh tiên tiến | 65.5% | 62.4% | 68,4% | 66,5% | |
Học sinh giỏi cấp trường | 25.1% | 26.2% | 21,1% | 25,5% | |
Học sinh giỏi cấp Thành phố | 12 | 16 | 24 | 10 | 25 |
Học sinh đạt giải Olympic | 30 huy chương | 32 huy chương | 37 huy chương | 47 huy chương | SGD không tổ chức |
Học sinh đạt giải Tin học Mos (TP, Toàn quốc, Thế giới) | - | 1 HC bạc thế giới | 2 giải QG | 10 giải TP | 01 giải TP |
HS đạt chứng chỉ Tin học Mos | 501 | 1130 | 937 (106 em đạt 1000 điểm) | 1216 (106 em đạt 1000 điểm) | 1223 (147 em đạt 1000 điểm) |
Học ngoại ngữ 2 (Nhật, Hàn, Pháp) | 109 | 511 | 810 | 855 | 1113 |
Thi học sinh giỏi tiếng Hàn online. | | | | 3 | 2 |
Thi học sinh giỏi tiếng Nhật TP | | | | 1 | |
Thi thiết kế sáng tạo TP | | | | 3 | |
Thi khoa học kỹ thuật | | | | 1 | 1 |
Chứng chỉ Ielts | | 25 | 42 | 40 | 26 |
Thi tiếng Anh trên mạng toàn quốc | | 2 | | | |
Thể dục – thể thao (Số HS tham gia học TD Tự chọn) | 1473 | 1554 | 1140 | 1278 | 1519 |
Số học sinh đạt giải TDTT | 18 | 30 | 71 | 24 | 1 HC bạc thế giới. |
CÁN BỘ - GIÁO VIÊN – NHÂN VIÊN | | | |
Tổng số CB-GV-NV | 131 | 128 | 130 | 123 | 123 |
Tổng số tổ | 13 | 13 | 13 | 12 | 12 |
Số tổ đạt LĐTT | 13 | 13 | 13 | 12 | 12 |
Số lượng GV đạt chuẩn đào tạo | 131 | 128 | 130 | 123 | 125 |
Số lượng GV trên chuẩn đào tạo | 21 | 28 | 28 | 27 | 29 |
Đề tài nghiên cứu khoa học, SKKN | 28 | 15 | 21 | 22 | 20 |
Giáo viên giỏi cấp Trường | 7 | 10 | 12 | 12 | 14 |
Giáo viên giỏi cấp Quận - TP | | | 2 | | |
Cá nhân đạt LĐTT | 122 | 123 | 128 | 123 | 123 |
Chiến sĩ thi đua cấp cơ sở | 17 | 13 | 20 | 16 | 19 |
Chiến sĩ thi đua cấp TP | 2 | 1 | 3 | 01 | - |
Nhà giáo ưu tú | | | | | |
KẾT QUẢ ĐÁNH GIÁ TẬP THỂ |
Chi bộ | Trong sạch vững mạnh | Trong sạch vững mạnh | Trong sạch vững mạnh | Trong sạch vững mạnh (Nhận Bằng khen của Thành ủy, Quận ủy) | Trong sạch vững mạnh tiêu biểu |
Tập thể nhà trường | Xuất sắc | Xuất sắc | Xuất sắc | Xuất sắc | Xuất sắc |
Công đoàn | Vững mạnh | Vững mạnh | Vững mạnh | Vững mạnh | Vững mạnh |
Đoàn thanh niên | Xuất sắc | Xuất sắc | Xuất sắc | Xuất sắc | Xuất sắc |
Cờ thi đua đơn vị dẫn đầu Thành phố | X | | | | |
Huân chương Lao động hạng Ba. | | | | X | |
| | | | | | | |
Giai đoạn từ năm 2020 đến 2025
Về cơ sở vật chất, trường có diện tích 11.086m2, kết cấu thành 5 khu A, B, C, D, E. Tổng số phòng học: 53 (có máy chiếu hoặc ti vi); 02 phòng thí nghiệm Lý, Hóa, Sinh; 3 phòng học STEM; 02 phòng bộ môn; 5 phòng Tin học, 01 phòng truyền thống- không gian Văn hoá Hồ Chí Minh; 01 thư viện; 01 Hội trường sức chứa 500 người. Ngoài ra, trường có 26 phòng nghỉ bán trú độc lập với phòng học (được trang bị giường nằm, máy lạnh) đáp ứng nhu cầu cho khoảng 1600 học sinh nghỉ bán trú. 100% phòng học được trang bị máy lạnh. Trường có 02 phòng chuẩn bị thí nghiệm; 01 phòng y tế; 01 phòng tiếp dân (công đoàn); 01 phòng tư vấn tâm lý; phòng Giáo viên; 01 văn phòng Đoàn; 01 nhà thi đấu; 02 kho thiết bị; 1 phòng nghỉ GV nam, 01 phòng nghỉ GV nữ. Khu hành chính: 01 văn phòng; 03 phòng PHT; 01 phòng HT
Về cán bộ quản lý nhà trường: Từ năm 2020 đến năm 2025, thầy Lê Ngọc Khái được bổ nhiệm Hiệu trưởng; thầy Đỗ Vũ Ngọc Trung và thầy Võ Thanh Toàn được bổ nhiệm làm Phó Hiệu trưởng.
Về đội ngũ cán bộ, viên chức, nhân viên: 100% cán bộ giáo viên đều đạt chuẩn và trên chuẩn về trình độ (36 thầy cô giáo có trình độ thạc sĩ, 01 viên chức có trình độ tiến sĩ). CBQL cùng đội ngũ giáo viên, nhân viên nhà trường đoàn kết, đồng lòng, nhiệt tình, trách nhiệm, tích cực đổi mới PP dạy học, kiểm tra; chăm sóc từng học sinh, luôn nỗ lực và hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Kết quả giáo dục qua các năm học 2020 – 2021 đến 2024-2025 đã có một bước phát triển vững chắc, chất lượng: Số HS xếp loại Xuất sắc, Giỏi, Khá trên 90%; học sinh xếp loại hạnh kiểm khá tốt trên 99%. Hằng năm, nhà trường có nhiều học sinh đạt giải cao trong các kỳ thi cấp thành phố, cấp quốc gia, thi tốt nghiệp THPT và tuyển sinh vào các trường đại học – cao đẳng.
Trường có nhiều câu lạc bộ hoạt động hiệu quả: Câu lạc bộ nghiên cứu khoa học, CLB văn học, CLB văn nghệ, CLB tiếng Anh, CLB võ thuật, CLB nhiếp ảnh,…
NỘI DUNG | NĂM HỌC |
2020-2021 | 2021-2022 | 2022-2023 | 2023-2024 | HKI 2024-2025 | |
1. HỌC SINH | | | | | | |
Tổng số học sinh | 2270 | 2231 | 2293 | 2332 | 2533 | |
Số lớp | 53 | 52 | 52 | 52 | 55 | |
Kết quả lên lớp (%) | 100% | 100% | 100% | 99,96% | - | |
Kết quả tốt nghiệp THPT | 100% | 100% | 100% | 100% | - | |
Điểm TB xét TN THPT | 8,0 | 7,2 | 7,63 | | - | |
Hiệu suất đào tạo | 100% | 100% | 100% | 100% | - | |
Casio, HSG cấp TP.HCM | 51 | 58 | 35 | 23 | 39 | |
Học sinh đạt giải Olympic | 54 huy chương | SGD không tổ chức | SGD không tổ chức | 24 huy chương | 50 huy chương | |
Học sinh đạt giải Tin học MOS (TP.HCM, Toàn quốc, Thế giới) | 4 giải TP | 7 giải TP | - Cấp Quốc gia: 05 giải. - Cấp TP.HCM: 06 giải. | - Cấp Quốc gia: 05 giải. - Cấp TP.HCM: 06 giải. | 7 giải TP | |
Giải STEM cấp TP.HCM, cấp Quốc tế | - | 5 giải Khuyến khích cấp TP | - Cấp Quốc tế: Giải "The Best Coding Team" - Cấp TP.HCM: 1 giải vô địch, 1 giải Nhì, 2 giải Khuyến khích. | - | 05 giải (02 giải Nhì, 03 giải Ba) | |
Đề tài NCKH đạt giải cấp TP | - | 01 đề tài | 06 đề tài | 03 đề tài | 07 đề tài | |
HS đạt chứng chỉ Tin học MOS | 1253 (14 em đạt 1000 điểm) | 1163 (68 em đạt 1000 điểm) | 1322 (63 em đạt 1000 điểm) | 1555 (148 em đạt 1000 điểm) | 1408 | |
Chứng chỉ IELTS | 67 | 76 | 82 | 180 | 130 | |
Số học sinh đạt giải TDTT | 28 | 33 | - Cấp Quốc gia: 01 HCB. - Cấp TP.HCM: 14 Huy chương (11 HCV, 2 HCB, 1 HCĐ). | - Cấp TP.HCM: 19 Huy chương (6 HCV, 7 HCB, 6 HCĐ). | - | |
2. CÁN BỘ - GIÁO VIÊN – NHÂN VIÊN | | | | |
Số lượng CB-GV đạt chuẩn đào tạo | 105 | 104 | 104 | 105 | 102 | |
Số lượng CB-GV đạt trên chuẩn đào tạo | 34 | 34 | 34 | 36 | 36 | |
Đề tài nghiên cứu khoa học, Sáng kiến | 24 | 24 | 20 | 20 | 21 | |
Giáo viên giỏi cấp Trường | 14 | 19 | 19 | 16 | - | |
Cá nhân đạt LĐTT | 122 | 118 | 116 | 120 | - | |
Chiến sĩ thi đua cấp cơ sở | 19 | 17 | 17 | 33 | - | |
Chiến sĩ thi đua cấp TP | 02 | 02 | 01 | 01 | - | |
3. KẾT QUẢ ĐÁNH GIÁ TẬP THỂ | | | | |
Chi bộ | HTXSNV | HTXSNV | HTTNV | HTXSNV | HTTNV | |
Tập thể nhà trường | HTXSNV | HTXSNV | HTXSNV | HTXSNV | - | |
Công đoàn | HTXSNV | HTTNV | HTTNV | HTTNV | - | |
Đoàn thanh niên | - HTXSNV - Cờ thi đua đơn vị Dẫn đầu cụm. - Bằng khen của Trung ương Đoàn | - HTXSNV - Cờ thi đua đơn vị Dẫn đầu cụm. - Bằng khen của Trung ương Đoàn | - HTXSNV - Cờ thi đua đơn vị Dẫn đầu cụm. - Bằng khen của Trung ương Đoàn | - HTXSNV - Bằng khen của Thành Đoàn thành phố Thủ Đức. - Bằng khen của Thành Đoàn TP. Hồ Chí Minh | - | |
Cờ thi đua đơn vị dẫn đầu Thành phố | | | | | - | |
Kiểm định chuẩn chất lượng giáo dục | Cấp độ 1 | | | | - | |
Qua gần 50 năm hình thành và phát triển, Trường THPT Thủ Đức đã trở thành điểm sáng về chất lượng giáo dục đào tạo, tạo được uy tín và niềm tin đối với xã hội. Ngôi trường là niềm mơ ước của nhiều thế hệ học sinh lớp 9 lựa chọn nguyện vọng trong kỳ thi Tuyển sinh vào lớp 10 hàng năm. Từ mái trường này, lớp lớp thế hệ học sinh đã tốt nghiệp THPT, thi đỗ vào các trường đại học, cao đẳng danh tiếng trong và ngoài nước, trở thành cán bộ quản lý, công chức, viên chức, những nhà khoa học, nhà nghiên cứu, doanh nhân, bác sĩ, kỹ sư, … những công dân thành đạt trong và ngoài nước.
Phát huy truyền thống “Dạy tốt, học tốt” của nhà trường, hiện nay, thầy trò Trường THPT Thủ Đức đang nỗ lực phấn đấu thực hiện thành công Kế hoạch chiến lược đổi mới nhà trường giai đoạn 2025-2030, tiên phong trong đổi mới “căn bản, toàn diện giáo dục đào tạo”, xây dựng nhà trường theo trường tiên tiến, hiện đại, chất lượng, hiệu quả, hội nhập khu vực và quốc tế; phát huy tối đa tiềm năng, năng lực, phẩm chất người học, chủ động đáp ứng yêu cầu về đổi mới giáo dục nhà trường theo hướng: chất lượng, chuyên nghiệp, đoàn kết, đổi mới - sáng tạo, phát triển vững chắc.
Người viết: Thầy Lê Ngọc Khái - Bí thư chi bộ, Hiệu trưởng nhà trường.